thiên kiến kẻ tồn tại

La Thiên ngồi ở Thiên Hoa Kim Loan phần lưng, trước mặt mà đến cương phong, giống như ngàn vạn đem lợi khí cạo đến, hắn thúc dục Chí Âm Băng Lôi Thể, mới miễn cưỡng ngăn cản. Bán Thần tốc độ, Chân Võ cảnh căn bản chịu không được, khả năng bị giết chết. Bạn đang đọc truyện Thiên Kiến Kẻ Sống Sót của tác giả Trĩ Sở. Trên server "Thánh Đàn", đang khởi động một trò chơi. Một trò chơi sinh tồn chân thật, một trò chơi thật sự sẽ đổ máu, một trò chơi mà nhân tính sẽ thể hiện ra hết thảy, là cược, là thử thách, hợp tác, phản bội,… Kênh youtube chính thức và duy nhất của @caocuongvu#caocuongvu #caocuongvutiktok #suthatlalungmabanchuabaogiobiet Thiên kiến kẻ tồn tại - cái chúng ta thấy chưa hẳn đã như chúng ta nghĩ. Bạn đã bao giờ nghe về khái niệm Survivorship Bias - Thiên Kiến Kẻ Tồn Tại? Có những sự việc, hiện tượng xảy ra ngay. Thiên Kiến Kẻ Sống Sót Chương 24: Hiện thực « Chương Trước. Giá cá kết quả lệnh an vô cữu cảm đáo khốn hoặc, trạm tại nguyên địa tư khảo. Lộ quá nhất danh hộ sĩ, an vô cữu lập khắc khiếu trụ tha tuân vấn, "Bất hảo ý tư, thỉnh vấn giá cá tư tuân bình khả Mark Forster Bauch Und Kopf Single. Làm thế nào Kinh Thánh tồn tại cho đến ngày nay? Sự kiện Kinh Thánh còn nguyên vẹn cho đến thời nay quả là một phép lạ. Sách này được hoàn tất cách đây hơn năm. Sách được ghi lại trên vật liệu có thể bị hư hỏng giấy cói và giấy da, và ngôn ngữ nguyên thủy của sách ít có người nào sử dụng ngày nay. Thêm vào đó, những người có quyền lực, từ hoàng đế cho đến các nhà lãnh đạo tôn giáo, đã tìm mọi cách để tiêu hủy Kinh Thánh. Công trình xuất sắc này đã tồn tại qua sự thử thách của thời gian như thế nào để trở thành cuốn sách nổi tiếng nhất của nhân loại? Hãy xem chỉ hai yếu tố. Nhiều bản sao chép giúp bảo tồn văn bản Là những người coi giữ các sách đầu tiên của Kinh Thánh, người Y-sơ-ra-ên cẩn thận gìn giữ những bản gốc và sao chép lại nhiều bản. Chẳng hạn, các vua Y-sơ-ra-ên được lệnh phải “chiếu theo luật-pháp nầy mà những thầy tế-lễ về dòng Lê-vi giữ, chép một bổn cho mình”.—Phục-truyền Luật-lệ Ký 1718. Nhiều người Y-sơ-ra-ên thích đọc Kinh Thánh, vì họ nhận thức đó là Lời Đức Chúa Trời. Do đó, việc sao chép những lời này được thực hiện hết sức cẩn thận bởi những người lành nghề. E-xơ-ra là một thầy sao chép có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, ông được gọi là “một văn-sĩ thạo luật-pháp của Môi-se, mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã truyền cho” E-xơ-ra 76. Vào khoảng thời gian từ thế kỷ thứ sáu đến thứ mười CN, có nhóm người Masorete sao chép phần Kinh Thánh tiếng Hê-bơ-rơ, hay “Cựu Ước”. Họ thậm chí đếm từng chữ trong văn bản để tránh sai sót. Cách sao chép kỹ lưỡng và tỉ mỉ như thế giúp bảo đảm tính chính xác của văn bản lẫn sự tồn tại của Kinh Thánh bất chấp mọi nỗ lực liên tục của kẻ thù nhằm tiêu hủy nó. Chẳng hạn, vào năm 168 TCN, vua Sy-ri là Antiochus IV tìm cách tiêu hủy tất cả bản sao phần Kinh Thánh tiếng Hê-bơ-rơ mà ông có thể tìm thấy trong khắp vùng Pha-lê-tin. Một sách sử Do Thái cho biết “Khi tìm được bất cứ cuộn sách luật pháp nào, họ đều xé nát và thiêu hủy”. Sách Bách khoa từ điển Do Thái viết “Những binh sĩ được giao nhiệm vụ này đã thi hành mệnh lệnh một cách rất khắt khe. . . Ai sở hữu một thánh thư. . . sẽ bị xử tử”. Thế nhưng, những bản sao Kinh Thánh vẫn tồn tại trong cộng đồng người Do Thái ở Pha-lê-tin cũng như ở những nơi khác. Ít lâu sau khi những người viết phần Kinh Thánh tiếng Hy Lạp, hay “Tân Ước”, hoàn tất công việc ghi chép, số bản sao các lá thư, lời tiên tri được soi dẫn và những lời tường thuật lịch sử của họ đã gia tăng nhanh chóng. Chẳng hạn, sứ đồ Giăng viết Phúc âm của ông tại Ê-phê-sô hoặc gần đó. Thế mà, một mảnh bản sao của sách Phúc âm này được phát hiện ở Ai Cập, cách đó hàng trăm cây số. Theo các chuyên gia, mảnh này là một phần của bản sao đã được chép lại chưa đầy 50 năm sau khi Giăng hoàn tất sách Phúc âm của ông. Sự phát hiện này cho thấy tín đồ Đấng Christ ở những nơi xa xôi lúc ấy đã có những bản sao của phần Kinh Thánh mới được soi dẫn. Sự phổ biến rộng rãi của Lời Đức Chúa Trời cũng góp phần giúp Kinh Thánh tồn tại nhiều thế kỷ sau thời Chúa Giê-su. Chẳng hạn, vào ngày 23 tháng 2 năm 303 CN khi trời vừa tảng sáng, người ta nói rằng Hoàng đế La Mã Diocletian đứng xem binh lính của ông phá đổ cửa một nhà thờ và đốt cháy các bản sao Kinh Thánh. Ông ta nghĩ mình có thể loại trừ đạo Đấng Christ bằng cách tiêu hủy các thánh thư đó. Ngày hôm sau, ông ra lệnh thiêu đốt tất cả bản sao Kinh Thánh trong khắp Đế quốc La Mã. Tuy nhiên, một số bản sao đã tồn tại và được sao chép lại. Thật vậy, nhiều phần của hai bản sao Kinh Thánh bằng tiếng Hy Lạp có lẽ hoàn tất không lâu sau sự chống đối của Diocletian đã tồn tại đến ngày nay. Một bản ở Rô-ma, bản kia ở thư viện Anh tại Luân Đôn. Mặc dù chưa tìm thấy những bản gốc của Kinh Thánh, có hàng ngàn bản chép tay trọn bộ hay một phần của sách này đã tồn tại đến ngày nay. Một số bản này rất cổ xưa. Khi được sao chép, nội dung của nguyên bản có đổi không? Học giả W. H. Green nói về phần Kinh Thánh tiếng Hê-bơ-rơ “Có thể nói chắc chắn là không sách cổ xưa nào khác được truyền lại một cách chính xác như vậy”. Một chuyên gia nổi tiếng về các bản Kinh Thánh chép tay là Sir Frederic Kenyon, viết về phần Kinh Thánh tiếng Hy Lạp “Vậy khoảng thời gian giữa năm hoàn tất nguyên bản và bằng chứng xưa nhất vẫn còn tồn tại, là rất ngắn, có thể xem như không đáng kể. Giờ đây không còn lý do gì để nghi ngờ Kinh Thánh, về cơ bản, được lưu truyền đến thời chúng ta như đã được viết ra. Có thể nói rằng cả tính chất xác thực và tính toàn vẹn nói chung của các sách Tân Ước cuối cùng đã được xác minh”. Ông cũng nói “Chúng ta có thể khẳng định chắc chắn là về cơ bản, tính toàn vẹn của Kinh Thánh đã được bảo tồn. . . Không thể nói như thế về bất cứ cuốn sách cổ nào khác trên thế giới”. Dịch Kinh Thánh Yếu tố thứ hai khiến cho Kinh Thánh trở thành cuốn sách nổi tiếng nhất của loài người, đó là sách này được dịch ra rất nhiều thứ tiếng. Sự kiện này phù hợp với ý định của Đức Chúa Trời là dân thuộc mọi nước, mọi thứ tiếng được biết và thờ phượng Ngài bằng “tâm-thần và lẽ thật”.—Giăng 423, 24; Mi-chê 42. Bản dịch đầu tiên của Kinh Thánh phần tiếng Hê-bơ-rơ mà người ta biết đến là bản Septuagint tiếng Hy Lạp. Bản này được dịch cho người Do Thái nói tiếng Hy Lạp sống ngoài vùng Pha-lê-tin và được hoàn tất khoảng hai thế kỷ trước khi Chúa Giê-su thực hiện sứ mạng rao giảng trên đất. Trọn bộ Kinh Thánh, kể cả phần tiếng Hy Lạp, được dịch sang nhiều thứ tiếng chỉ trong vòng vài thế kỷ sau khi Kinh Thánh được hoàn tất. Nhưng sau đó, các vua và thậm chí giới tu sĩ, những người lẽ ra phải cố gắng hết sức hầu dân chúng có Kinh Thánh để đọc, đã làm ngược lại. Giới tu sĩ tìm mọi cách để giữ giáo dân trong tình trạng tối tăm, không hiểu Lời Đức Chúa Trời bằng cách không cho phép dịch Lời ấy ra các ngôn ngữ thông dụng. Bất chấp lệnh của Giáo hội và chính quyền, những người can đảm đã liều mình dịch Kinh Thánh sang ngôn ngữ của người dân. Chẳng hạn, vào năm 1530, một người Anh tên là William Tyndale, từng theo học ở Đại học Oxford, xuất bản một ấn bản Ngũ Thư, tức năm sách đầu của phần Kinh Thánh tiếng Hê-bơ-rơ. Dù bị chống đối dữ dội, ông trở thành người đầu tiên dịch trực tiếp Kinh Thánh từ tiếng Hê-bơ-rơ sang tiếng Anh. Ông Tyndale cũng là dịch giả người Anh đầu tiên dùng danh Đức Giê-hô-va. Học giả Kinh Thánh người Tây Ban Nha là Casiodoro de Reina luôn đương đầu với nguy cơ bị những kẻ bắt bớ người Công Giáo sát hại khi ông nỗ lực thực hiện một trong những bản dịch Kinh Thánh đầu tiên sang tiếng Tây Ban Nha. Ông đã sang Anh, Đức, Pháp, Hà Lan và Thụy Sĩ để cố gắng hoàn tất bản dịch của mình. * Ngày nay, Kinh Thánh tiếp tục được dịch sang nhiều thứ tiếng khác, và hàng triệu bản được ấn hành. Sự kiện Kinh Thánh đã tồn tại để trở thành cuốn sách nổi tiếng nhất của loài người chứng thực lời được soi dẫn của sứ đồ Phi-e-rơ “Cỏ khô, hoa rụng, nhưng lời Chúa còn lại đời đời”.—1 Phi-e-rơ 124, 25. [Chú thích] ^ đ. 14 Bản dịch của Reina được xuất bản năm 1569 và được Cipriano de Valera sửa lại vào năm 1602. [Khung/​Hình nơi trang 14] TÔI NÊN ĐỌC BẢN DỊCH NÀO? Nhiều ngôn ngữ có rất nhiều bản dịch Kinh Thánh. Một số bản dùng ngôn ngữ cổ xưa, khó hiểu. Những bản khác được dịch thoát ý, mang tính diễn giải nhằm mục đích dễ đọc thay vì chính xác. Còn một số khác thì theo lối dịch sát, gần như từng chữ. Bản tiếng Anh của New World Translation of the Holy Scriptures Bản dịch Kinh Thánh Thế Giới Mới, do Nhân Chứng Giê-hô-va xuất bản, được một ủy ban ẩn danh dịch từ nguyên ngữ. Bản này đã được dùng làm cơ sở để dịch sang 60 thứ tiếng khác. Tuy nhiên, những người dịch của các thứ tiếng đó thường xuyên đối chiếu với văn bản trong nguyên ngữ. Bản Thế Giới Mới dịch sát nguyên văn khi cách dịch đó không làm lu mờ ý nghĩa. Những người này cố gắng dịch Kinh Thánh sao cho độc giả ngày nay dễ hiểu như độc giả vào thời Kinh Thánh có thể hiểu nguyên bản. Một số nhà ngôn ngữ học đã nghiên cứu các bản dịch Kinh Thánh hiện đại, trong đó có Bản dịch Thế Giới Mới, để tìm những thí dụ về tính thiếu chính xác và ý kiến thiên lệch trong cách dịch. Một học giả đó là Jason David BeDuhn, phó giáo sư của khoa nghiên cứu về tôn giáo tại Đại học Northern Arizona, Hoa Kỳ. Vào năm 2003, ông xuất bản một bài nghiên cứu dài 200 trang về chín “bản Kinh Thánh phổ biến nhất trong tiếng Anh”. * Bài nghiên cứu này xem xét một số đoạn Kinh Thánh thường gây tranh luận, vì đó là phần mà “thiên kiến thường ảnh hưởng cách dịch”. Về mỗi đoạn, ông đối chiếu bản Hy Lạp với cách dịch của mỗi bản tiếng Anh, và ông tìm những điểm cho thấy người dịch do thiên kiến đã cố làm thay đổi ý nghĩa. Ông đánh giá ra sao? Ông BeDuhn nói công chúng và nhiều học giả Kinh Thánh cho rằng những điểm khác biệt trong Bản dịch Thế Giới Mới NW là do thiên kiến tôn giáo của người dịch. Tuy nhiên, ông nói “Phần lớn những khác biệt là do bản NW chính xác hơn, được dịch một cách cẩn thận theo nguyên văn”. Mặc dù không đồng ý với cách dịch một số đoạn của Bản dịch Thế Giới Mới, ông BeDuhn nói bản này “chứng tỏ là chính xác nhất trong các bản được so sánh”. Ông gọi đó là bản dịch “xuất sắc”. Tiến sĩ Benjamin Kedar, một học giả tiếng Hê-bơ-rơ ở Israel, đưa ra lời bình luận tương tự về Bản dịch Thế Giới Mới. Năm 1989, ông nói “Bản dịch này phản ánh nỗ lực trung thực để hiểu nguyên văn một cách chính xác nhất. . . Tôi chưa bao giờ thấy trong Bản dịch Thế Giới Mới bất cứ chủ ý nào do thiên kiến để làm thay đổi ý của nguyên văn”. Hãy tự hỏi Tôi có mục tiêu nào khi đọc Kinh Thánh? Tôi có muốn một bản dịch dễ đọc nhưng kém chính xác không? Hay tôi muốn đọc những điều phản ánh càng sát với nguyên bản được soi dẫn càng tốt?’ 2 Phi-e-rơ 120, 21. Bạn chọn đọc bản dịch nào là tùy vào mục tiêu của mình. * [Chú thích] ^ đ. 22 Ngoài Bản dịch Thế Giới Mới, những bản khác là The Amplified New Testament, The Living Bible, The New American Bible With Revised New Testament, New American Standard Bible, The Holy Bible—New International Version, The New Revised Standard Version, The Bible in Today’s English Version, và King James Version. [Hình] Bản “New World Translation of the Holy Scriptures” đã được dịch ra nhiều thứ tiếng [Các hình nơi trang 12, 13] Những bản chép tay của nhóm Masorete [Hình nơi trang 13] Một mảnh ghi Lu-ca 127 “. . . Đừng sợ chi, vì các ngươi trọng hơn nhiều chim sẻ” [Nguồn hình ảnh nơi trang 13] Foreground page National Library of Russia, St. Petersburg; second and third Bibelmuseum, Münster; background © The Trustees of the Chester Beatty Library, Dublin [Chú thích] ^ đ. 25 Bản New World Translation of the Holy Scriptures chưa có trong tiếng Việt. Mỗi ngày, chúng ta luôn phải suy nghĩ và đánh giá nhiều vấn đề khác nhau, nhưng thường bị ảnh hưởng bởi những thiên kiến nhận thức không dễ nhận ra. Chúng là những suy nghĩ “gây nhiễu” tư duy trong quá trình tiếp nhận và xử lí thông tin, ảnh hưởng đến các quyết định và đánh giá sau rất nhiều loại thiên kiến nhận thức, và sau đây là 12 dạng thường gặp nhất. Việc nhận biết chúng sẽ giúp bạn hiểu được cách chúng xen vào tư duy của bạn và ngăn chặn phù Confirmation bias Thiên kiến xác nhậnThiên kiến xác định xảy ra khi bạn cho rằng suy nghĩ của bản thân là đúng và có xu hướng tìm kiếm, tiếp nhận, và ghi nhớ những thông tin củng cố cho quan điểm của mình. Thiên kiến xác nhận vô cùng phổ biếnVí dụ, bạn tin rằng người thuận tay trái sáng tạo hơn người thuận tay phải. Mỗi lần gặp ai đó vừa thuận tay trái vừa sáng tạo, bạn sẽ cho rằng đây là bằng chứng chứng minh quan điểm của mình là đúng và bỏ qua những yếu tố khác. 2. Optimism bias Khuynh hướng lạc quanOptimism bias là xu hướng lạc quan quá mức, đánh giá thấp khả năng xảy ra các kết quả không mong muốn và đánh giá cao khả năng những điều thuận lợi đến với mình. Khuynh hướng lạc quan có thể khiến bạn lờ đi những yếu tố rủi ro, dẫn đến những quyết định sai lầm. Lạc quan quá mức khiến bạn lơ đi yếu tố rủi roVí dụ, bạn cho rằng bản thân không cần một khoảng tiền khẩn cấp và thường xuyên tiêu dùng vô độ, đến khi rủi ro ập đến khiến bạn trở tay không Pessimism bias Khuynh hướng tiêu cựcKhuynh hướng tiêu cực Pessimism bias là xu hướng đánh giá cao khả năng những điều tiêu cực xảy đến với mình. Khuynh hướng này có thể ngăn cản bạn thử thách những điều mới, lo lắng nhiều hơn và cảm thấy tồi tệ về những sự kiện đã qua. Quá tiêu cực khiến tâm lý ảnh hưởng trước khi làm gì đóVí dụ, bạn sắp có một cuộc phỏng vấn xin việc. Mặc dù bạn đủ tiêu chuẩn cho công việc đó và đã từng thực hiện nhiều cuộc phỏng vấn trước đây, nhưng việc rơi vào khuynh hướng tiêu cực khiến bạn thấy tự ti. Kết quả buổi phỏng vấn cũng có thể bị ảnh Logical fallacy Ngụy biện trong lập luậnNgụy biện là lập luận sai về mặt logic. Nói cách khác, ngụy biện là vi phạm các quy tắc trong lập luận để giành phần lợi trong tranh luận, trong đối thoại, từ đó có thể biến sai thành đúng, biến đúng thành nhân khiến ta mắc lỗi ngụy biện thường do tâm lý háo thắng, do thói quen nói chuyện thông thường, hoặc do nhiễm cách lý luận của báo chí. Trong cuộc sống chúng ta rất thường gặp lỗi ngụy biệnVí dụ, công kích cá nhân là một kiểu nguỵ biện thường thấy trong tranh luận. Thay vì tập trung vào chủ đề chính, bạn bắt đầu quay sang công kích đối phương nhằm làm giảm uy tín của họ. Những kiểu câu thường gặp cho kiểu ngụy biện này là “Có làm được chưa mà nói?”, “Chưa làm được gì thì nói gì ai?”...Ngụy biện là lỗi thường gặp trong giao tiếp nhưng lại khó nhận ra. Phát hiện ra ngụy biện giúp bạn nhìn nhận cuộc trò chuyện chính xác hơn và đưa ra những lập luận phù Empathy gap Khoảng cách thấu cảmKhoảng cách thấu cảm Empathy gap xảy ra khi một người trong trạng thái tâm lý này không hiểu một người đang ở trong trạng thái tâm lý khác. Từ đó, họ có xu hướng đưa ra những quyết định thỏa mãn cảm xúc riêng của bản thân. Khoảng cách thấu cảm khi một người không hiểu cảm xúc người khiaVí dụ, bạn vốn là một người bình tĩnh. Vì vậy khi đối diện với một vấn đề, bạn không hiểu được vì sao người bên cạnh lại có thể hoang mang đến thế và cho rằng người kia đang làm quá mọi Misinformation effect Hiệu ứng sai lệch thông tinHiệu ứng này xảy ra khi trí nhớ về một sự việc bị can thiệp bởi những thông tin sau sự kiện đó. Trong quá trình gợi nhớ recall, nếu câu hỏi bao gồm một thông tin không chính xác, trí nhớ ban đầu sẽ bị ảnh hưởng và hình thành sự sai lệch. Nguồn verywellmind Đôi khi câu hỏi với thông tin sai lệch sẽ "dắt mũi" trí nhớ bạnVí dụ, bạn chứng kiến một vụ tai nạn xe hơi. Sau đó, bạn được hỏi rằng khi ấy các cửa kính ô tô có bị vỡ không. Thay vì nhớ về hiện trường ban đầu, não bộ của bạn lại liên kết “tai nạn xe hơi” với “cửa kính bị vỡ”, mặc dù thực tế hiện trường không hề như vậy. Câu hỏi "cửa kính vỡ" có khả năng làm lời khai của bạn bị sai Framing effect Hiệu ứng đóng khungHiệu ứng đóng khung Framing effect xảy ra khi quyết định của chúng ta bị ảnh hưởng bởi cách thông tin được trình bày. Thông qua cách diễn đạt, những thông tin tương tự nhau có thể trở nên thu hút hơn. Trình bày thông tin một cách thu hút cũng làm một thủ thuật của MarketingVí dụ, với thông tin là sản phẩm sữa chua A có chứa một lượng chất béo nhất định, nhà sản xuất có 2 cách trình bày như sauSữa chua chứa 20% chất béoSữa chua được giảm 80% chất béoMặc dù nội dung là như nhau, chúng ta có xu hướng bị thu hút bởi cách viết thứ hai Gender bias Thành kiến về giớiĐây là khuynh hướng đưa ra nhận định dựa trên giới tính, cho rằng giới tính này hơn giới tính kia. Trong xã hội hiện đại đặc biệt là môi trường công sở, thành kiến về giới thường được thể hiện qua việc thiên vị nam giới. Dù thời đại bình đẳng nhưng thiên kiến này vẫn còn tồn tạiVí dụ, có nhiều nhận định rằng phụ nữ không phù hợp với những công việc đòi hỏi khả năng lãnh đạo bởi họ dễ bị chi phối bởi cảm xúc. 9. Stereotyping Khuynh hướng khuôn mẫu Stereotyping là khuynh hướng ghi nhận thành viên của một nhóm xã hội có những đặc điểm nhất định. Đặc điểm đó có thể là tính cách, sở thích, ngoại hình hoặc khả năng. Những đặc điểm này có thể không cụ thể và thiếu chính xác. Đây còn được gọi là "vơ đũa cả nắm"Ví dụ, khi nghe về ngôi trường A, bạn cho rằng những học sinh đó thường có gia thế, phải học rất nhiều và rất tự cao dù không có thông tin nào chính Survivorship bias Thiên lệch kẻ sống sótThiên lệch kẻ sống sót Survivorship bias xảy ra khi chúng ta đánh giá về một tình huống nào đó dựa trên sự thành công của một người hoặc một nhóm người mà bỏ qua những người còn lại. "Giai thoại" về Bill Gates và Mark Zuckerberg đã từng khiến nhiều người tin bỏ học đại học là sẽ thành dụ, Bill Gates hay Mark Zuckerberg đều bỏ học và thành công. Nhưng bên cạnh họ, có rất nhiều người không lựa chọn con đường đại học và đang gặp nhiều khó khăn. Chỉ một số người thành công với con đường này không có nghĩa rằng ai cũng có Self-serving bias Thiên kiến vị kỷThiên kiến vị kỷ xảy ra khi một người ghi nhận công sức và nỗ lực của bản thân khi đạt kết quả tốt, và đổ lỗi cho những nhân tố bên ngoài nếu gặp kết quả tồi tệ. Tại người, tại hoàn cảnh, tại số phậnVí dụ, khi đi học, bạn được điểm 10 và tin rằng bạn đã ôn bài chăm chỉ để đạt được điều đó. Nhưng nếu một bài kiểm tra khác có kết quả không như ý, bạn sẽ cho rằng thầy cô ra đề khó hoặc chấm điểm không công Halo effect Hiệu ứng hào quangHiệu ứng hào quang Halo effect còn được xem là nguyên tắc “cái gì đẹp thì cũng tốt”, xảy ra khi bạn có ấn tượng tốt về một người và mặc định rằng các khía cạnh khác của họ cũng tốt. Nhiệt tình và năng lực không phải lúc nào cũng đi đôi với nhauVí dụ, trong môi trường làm việc, thái độ tích cực và sự nhiệt tình của một người có thể làm lu mờ đi sự thật rằng người đó chưa có nhiều kiến thức và kĩ năng liên quan. Điều này khiến những đồng nghiệp đánh giá cao biểu hiện của người đó hơn năng lực thực tế. Đăng bởi EDUTab Ngày đăng 15/08/2021 Có những kẻ thù tồn tại trong đầu chúng ta mà ta không hề hay biết. Nó âm thầm giết hại, hay dẫn chúng dắt các quyết định của ta theo một hướng hoàn toàn xem 20 loại thiên kiến trong nhận thức để loại bỏ các bạn kiến mỏ neoMọi người thường phụ thuộc quá nhiều và thông tin ban đầu mà họ nghe được. Trong một cuộc thỏa thuận về tiền lương, bất kỳ ai nêu ra đề xuất nào cũng có thể hình thành một loạt các khả năng hợp lý trong đầu mỗi nghiệm có sẵnMọi người thường đánh giá cao tầm quan trọng của một thông tin sẵn có với họ. Chẳng hạn, một người có thể cho rằng hút thuốc không phải là hành vi không lành mạnh bởi họ từng biết một người hút 3 gói thuốc mỗi ngày nhưng vẫn sống đến 100 tuổi3. Hiệu ứng BandwagonXác suất để một người tin vào một điều gì đó sẽ tăng lên dựa trên số người cũng có niềm tin đó. Đây là một ví dụ thể hiện sức mạng của Tư duy tập thể và là lý do để giải thích vì sao các cuộc họp thường không hiệu Thiên kiến điểm mùKhông nhận ra những thành kiến trong nhận thức của chính bạn bản thân nó là một sự thiên vị. Mọi người thường nhận thức và động lực ở người khác nhiều hơn so với chính bản thân Thiên kiến ủng hộ sự lựa chọnKhi bạn lựa chọn một cái gì đó, bạn có xu hướng cảm thấy tích cực về nó, ngay cả khi sự lựa chọn có những sai sót. Cũng giống như cách bạn nghĩ về chú chó của mình. Với bạn, nó lúc nào cũng tuyệt vời, mặc dù đôi lúc nó cắn người Ảo giác phân nhómTrong các sự kiện ngẫu nhiên, chúng ta thường có xu hướng nhìn thất những kiểu mẫu nhất định. Đây cũng là chìa khóa để giải thích cho những sai lầm trong cờ bạc, khi người ta cho rằng màu đỏ ít nhiều sẽ xuất hiện trên bàn Roulette sau một chuỗi màu Thiên kiến xác nhậnChúng ta thường có xu hướng tiếp nhận nhiều hơn các thông tin xác nhận niềm tin của chính chúng ta. Thiên kiến này khiến mọi người tin quá mức vào giả thiết của họ, từ đó gây nên những sai lầm trong quyết định của một cá nhân hoặc tổ Thiên kiến thiên vịMọi người thường có xu hướng tin tưởng vào những bằng chứng có trước hơn là các bằng chứng hoặc thông tin mới xuất hiện. Chẳng hạn, mọi người mất nhiều thời gian để chấp nhận Trái đất hình cầu bởi theo hiểu biết trước đây của họ thì hành tinh có dạng Thiên kiến thông tinMọi người có xu hướng thu thập nhiều thông tin ngay khi nó không ảnh hưởng đến hành động. Không phải lúc nào nhiều thông tin hơn cũng tốt hơn. Với lượng thông tin ít hơn, mọi người thường có thể đưa ra các dự đoán chính xác Hiệu ứng đà điểuTrọng tài chính hành vi học, hiệu ứng đà điểu là nỗ lực của các nhà đầu tư nhằm né tránh tiêu cực. Khái niệm này xuất phát từ các giả thiết không có thật cho rằng đà điểu thường vùi đầu vào cát để tránh nguy Thiên kiến kết quảĐánh giá một quyết định dựa trên kết quả thay vì tìm hiểu xem quyết định đó đã được thực hiện như thế nào trong thời điểm đó. Bạn gom được một mớ” trong song bạc không có nghĩa là cờ bạc là một quyết định thông minh để kiếm Quá tự tinMột vài người trong chúng ta quá tự tin về khả năng bản thân và điều này đôi khi khiến họ phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn trong cuộc sống. Những chuyên gia dễ bị vướng vào thiên lệch này hơn bởi họ luôn tin là mình Hiệu ứng giả dượcChỉ cần bạn tin rằng một cái gì đó có tác động nhất định đến bạn, nó sẽ tạo ra ảnh hưởng đó. Trong y học, những người được cho dùng giả dược từng được chứng minh có hiệu quả sinh lý tương tự như người uống thuốc thật Thiên hướng đổi mớiKhi một người đề xuất một sự đổi mới nào đó, họ có xu hướng đánh giá cao những tính hữu ích của nó đồng thời đánh giá thấp những hạn Thiên kiến tác động gần đâyLà xu hướng đánh giá cao những thông tin mới nhiều hơn so với thông tin cũ. Các nhà đầu tư thường nghĩ rằng thị trường sẽ luôn đi theo cách vận hành hiện tại và đưa ra quyết định không khôn Thiên kiến nổi trộiChúng ta thường có xu hướng tập trung vào những đặc điểm dễ nhận biết nhất của một người hoặc một khái niệm. Khi bạn nghĩ về cái chết, bạn có thể lo lắng về cảnh bị một con sư tử vồ, trái ngược với những tình huống khả thi hơn chẳng hạn như chết trong một vụ tai nạn giao Nhận thức có chọn lọcLà khuynh hướng không để ý và nhanh chóng quên đi các kichs thích gây ra cảm giác khó chịu về cảm xúc và mâu thuẫn với niềm tin trước đây của chúng ta. Một thử nghiệm dựa trên trận bóng diễn ra giữa sinh viên từ 2 trường đại học cho thấy một trong 2 đội lúc nào cũng nhận thấy đối phương phạm lỗi nhiều Sự rập khuônKỳ vọng một nhóm hoặc một người có những phẩm chất nhất định mà không hề có thông tin thực về người đó. Điều này cho phép chúng ta nhanh chóng xác định đâu là bạn và đâu là thù, nhưng mọi người thường có xu hướng sử dụng quá mức và lạm dụng Thiên kiến kẻ sống sótLà sai lầm do chỉ tập trung vào các ví dụ về những người “sống sót” sau thảm cảnh, khiến chúng ta đánh giá sai một tình huống. Ví dụ, chúng ta có thể nghĩ rằng trở thành một doanh nhân rất dễ dàng bởi vì chúng ta chưa từng nghe đến những doanh nhân bị phá Thiên kiến không rủi roCác nhà xã hội học sau quá trình nghiên cứu đã đưa ra kết luận rằng chúng ta yêu sự chắc chắn – ngay cả khi điều đó phản tác dụng. Loại bỏ hoàn toàn các rủi ro không có nghĩa là nó sẽ không xảy business insider Search for 🔥Dùng ChatGPT FreeCategoriesCategories Canva Pro giá rẻAcc ChatGPT giá rẻRecent Posts Tư duy ngược cho kẻ thất tình ChatGPT sử dụng mô hình GPT-4 có khác gì so với GPT-3? Auto-GPT là gì? Nó có khác gì so với ChatGPT? Microsoft Designer, công cụ thiết kế tích hợp AI, dùng thử miễn phí Youtube Premium là gì? Cách đăng ký acc Premium giá rẻRandom PostsTôi giúp đỡ cậu ko cần báo đáp, chỉ mong cậu hứa với tôi một điều…VOV đã chính thức có bản quyền ASIAD 2018Hướng dẫn đăng ký chích vaccine covid-19 tại nhàLẽ nào chịu chết như con ếch?Những quan điểm sai lầm về nuôi dạy trẻ trong cách giáo dục ở Việt NamYoutube Premium giá rẻShare acc MidJourney Pro Thinking Out Of Box.. 1mo Edited Bạn đã bao giờ nghe về khái niệm Survivorship Bias – Thiên Kiến Kẻ Tồn Tại? Có những sự việc, hiện tượng xảy ra ngay trước mắt chúng ta, nhưng vấn đề đằng sau đó ko như chúng ta nghĩ. THIÊN KIẾN KỂ TỒN TẠI Trong Thế Chiến II, phe Đồng Minh đã theo dõi các vết đạn trên những chiếc máy bay bị địch bắn trúng. Kết quả trông giống ảnh ở dưới. Họ bèn gia cố những chiếc máy bay tại những chỗ bị bắn trúng nhiều để chúng có thể chịu đựng được tốt hơn thế nữa. Tư duy lúc ấy là gia cố vào những nơi tập trung nhiều chấm đỏ và cả trên bề mặt nữa, ấy là một suy luận hợp lý, đó là những chỗ bị bắn nhiều nhất mà. Song Abraham Wald, một nhà toán học lại đưa ra một kết luận khác các chấm đỏ ấy chỉ nói lên tổn thất của những chiếc máy bay CÓ THỂ TRỞ VỀ CĂN CỨ. Abraham Wald cho rằng nhà sản xuất máy bay nên cải thiện vật liệu ở những chỗ không có chấm nào, bởi đó mới là nơi mà một khi ăn đạn máy bay sẽ RỤNG NGAY. Hiện tượng này được gọi là thiên kiến kẻ tồn tại Survivorship Bias. Và nói theo nghĩa đơn giản nhất ấy là, ngay khi nhìn vào những thứ tồn tại, chúng ta nên tập trung vào thứ đã không tồn tại được. Một số ví dụ khác chẳng hạn như người ta cứ thống kê N thói quen của người thành đạt, M đặc điểm công ty phát triển mạnh mẽ nhưng họ có thể không nhìn ra là những người nghèo khổ hay công ty phá sản cũng có những đặc điểm đó. Nguồn Kiến Thức Kinh Tế More from this author Explore topics

thiên kiến kẻ tồn tại